Tranh chấp quyền sở hữu nhà và đòi lại nhà
Nguyên đơn:
1/ Ông N Nguyễn V n Chu n, sinh năm 1961 (Có mặt)
2/ Bà N Nguyễn Thị Th o, sinh năm 1965 (Có mặt)
Cùng địa chỉ: 3F BĐ, Phường 2, quận TB, Tp. HCM.
Bị đơn:
1/ Ông Nguyễn V n u c, sinh năm 1959 (Có mặt)
2/ Bà Vũ Thị Hoa, sinh năm 1962 (Có mặt)
Cùng địa chỉ: 2/89 HHG, Khu phố 1, phường TL, Quận X, Tp. HCM.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn: Luật sư NTT – Luật sư Văn phòng
Luật sư PL Vietnam thuộc Đoàn Luật sư Thành phố HCM.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1/ Ông L Nguyễn V n uang, sinh năm 1983 (Có mặt)
2/ Bà L Hồ Thị Thu Th y, sinh năm 1987 (Xin vắng mặt)
3/ Trẻ L Nguyễn Hồ Th o Nga, sinh năm 2014
Người giám hộ hợp pháp của trẻ LQ Nga: Bà LQ H Thị Thu Thủy, sinh năm 1987 (Xin vắng mặt)
4/ Ông L Nguyễn V n Thanh, sinh năm 1985 (Có mặt)
5/ Bà L Nguyễn Thị Huệ, sinh năm 1987 (Có mặt)
6/ Bà L Nguyễn Thị Th , sinh năm 1990 (Xin vắng mặt)
7/ Bà L Nguyễn Thị Loan, sinh năm 1993 (Xin vắng mặt)
Cùng địa chỉ: 2/89 HHG, Khu phố 1, phường TL, Quận X, Tp. HCM.
8/ L Ủy ban nhân dân uận X, Thành ph HCM (Xin vắng mặt)
Địa chỉ: 01 Lê Thị Riêng, phường TA, Quận X, Tp. HCM.
NHẬN THẤY:
Theo bản án sơ thẩm thì nội dung vụ án như sau:
Trong đơn khởi kiện và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn – Ông NĐ Nguy n Văn Chuẩn và bà NĐ Nguy n Thị Thảo trình bày: Ông NĐ Nguy n Văn Chuẩn là em ruột ông BĐ Nguy n Văn Quốc, bà BĐ Vũ Thị Hoa là vợ ông BĐ Nguy n Văn Quốc.
Căn nhà tại địa chỉ 2/89 HHG, Khu phố 1, phường TL, Quận X, Thành phố HCM (sau đây gọi tắt là nhà 2/89) là thuộc quyền sở hữu của vợ ch ng ông NĐ Nguy n Văn Chuẩn và bà NĐ Nguy n Thị Thảo. Vào năm 1992 ông NĐ Chuẩn có mua lô đất diện tích 160m2 tại ấp 3, xã TL. Sau đó vào năm 1995 ông NĐ Chuẩn xây dựng một căn nhà cấp 4 khoảng 50m2, quán nhỏ phía trước nhà và mua trang thiết bị sinh hoạt trong gia đình, số tiền tổng cộng khoảng 40.000.000 đ ng. Do gia đình ông BĐ Quốc từ quê vào không có chỗ ở nên ông NĐ Chuẩn cho gia đình ông BĐ Quốc ở nhờ tại nhà 2/89. Sau đó vợ ch ng ông BĐ Quốc nói với ông NĐ Chuẩn cho xây căn nhà có gác ở phần phía sau để cho thuê có thêm thu nhập. ng NĐ Chuẩn đ ng ý và để cho ông BĐ Quốc tự bỏ tiền ra xây dựng phần phía sau. Vào năm 2003 ông NĐ Chuẩn đã hợp thức hóa căn nhà trên, đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở, h sơ gốc số 12334 ngày 26/11/2003 có địa chỉ tại 2/89 HHG, Khu phố
1, phường TL, Quận X, Tp. HCM. Do có nhu cầu nhập hộ khẩu lo cho con đi học của ông BĐ Quốc, nên vợ ch ng ông BĐ Quốc nhờ vợ ch ng ông NĐ Chuẩn làm thủ tục tặng cho nhà 2/89 để vợ ch ng ông BĐ Quốc được đứng tên quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở và làm thủ tục nhập hộ khẩu, sau đó sẽ sang tên nhà đất lại cho vợ ch ng ông. Do anh em ruột trong nhà nên ông NĐ Chuẩn sẵn sàng giúp đỡ. Ngày 16/4/2004 vợ ch ng ông NĐ Chuẩn ký hợp đ ng tặng cho nhà 2/89 cho vợ ch ng ông BĐ Quốc, thực chất việc tặng cho này chỉ là giả tạo.
Sau đó vợ ch ng ông BĐ Quốc đề nghị vợ ch ng ông NĐ Chuẩn bán lại căn nhà trên với nhiều hình thức và điều kiện bán khác nhau. Theo bản cam kết thỏa thuận ngày 09/12/2013 giữa vợ ch ng ông NĐ Chuẩn và vợ ch ng ông BĐ Quốc, có nói rõ căn nhà là thuộc sở hữu của vợ ch ng ông NĐ Chuẩn, việc tặng cho nhà mục đích là làm hộ khẩu, ông NĐ Chuẩn vì tình nghĩa anh em nên đ ng ý bán nhà và cho tiền ông BĐ Quốc là 1.250.000.000 đ ng. Theo thỏa thuận từ ngày 09/12/2013 đến ngày 31/12/2014 có nhiều người đến hỏi mua nhưng ông BĐ Quốc không đ ng ý bán. Ngày 01/01/2015 ông NĐ Chuẩn đến bàn với vợ ch ng ông BĐ Quốc về việc sang tên giấy chứng nhận nhà đất cho vợ ch ng ông NĐ Chuẩn như đã thỏa thuận, nhưng vợ ch ng ông BĐ Quốc đưa ra nhiều lý do để chiếm đoạt toàn bộ căn nhà. Nay ông NĐ Chuẩn yêu cầu công nhận quyền sở hữu nhà và đất tại địa chỉ 2/89 HHG, Khu phố 1, phường TL, Quận X, Thành phố HCM là của vợ ch ng ông NĐ Chuẩn; yêu cầu vợ ch ng ông BĐ Quốc và các con phải giao trả nhà 2/89. ng NĐ Chuẩn không đ ng ý cho ông BĐ Quốc 1.250.000.000 đ ng như thỏa thuận ban đầu vì vợ ch ng ông BĐ Quốc không có thiện chí trong việc giao trả nhà.Tại bản tự khai và lời khai trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa sơ thẩm, bị đơn – Ông BĐ Nguy n Văn Quốc và bà BĐ Vũ Thị Hoa trình bày: Căn nhà và đất tại địa chỉ 2/89 HHG, Khu phố 1, phường TL, Quận X, Tp. HCM là do ông NĐ Chuẩn mua. Năm 2001 vì không đủ chỗ ở nên ông BĐ Quốc nói với ông NĐ Chuẩn là muốn xây dựng thêm một phần nhà lầu để ở. Vào năm 2003 ông NĐ Chuẩn đã hợp thức hóa căn nhà trên. Ngày 16/4/2004 vợ ch ng ông NĐ Chuẩn tự nguyện làm thủ tục tặng cho vợ ch ng ông BĐ Quốc căn nhà trên,việc tặng cho không phải làm thủ tục nhập hộ khẩu. ng BĐ Quốc đã đăng bộ và phía ông NĐ Chuẩn không tranh chấp, ông BĐ Quốc cũng nhiều lần thế chấp nhà để vay tiền. Như vậy việc tặng cho đã có giá trị pháp lý nên căn nhà số 2/89 HHG, Khu phố 1, phường TL, Quận X, Tp. HCM là của vợ ch ng ông BĐ Quốc. Nội dung bản cam kết ngày 09/12/2013 do ông NĐ Chuẩn tự ghi bản này, đ ng thời nội dung không liên quan đến quyền sở hữu hợp pháp của ông BĐ Quốc, không thể thay thể hợp đ ng tặng cho đã được công chứng. Do vậy ông BĐ Quốc đề nghị bác yêu cầu của nguyên đơn, hủy Quyết định khẩn cấp tạm thời về việc cấm chuyển nhượng nhà số 2/89, xác định nhà tại địa chỉ 2/89 HHG, Khu phố 1, phường TL, Quận X là của vợ ch ng ông BĐ Quốc.
Khi ký bản cam kết ngày 09/12/2013 ông BĐ Quốc đ ng ý cho vợ ch ng ông NĐ Chuẩn số tiền bằng 1/2 giá trị căn nhà vì ông nghĩ căn nhà có ngu n gốc của ông NĐ Chuẩn. Nay ông không đ ng ý cho tiền như bản cam kết ngày 09/12/2013. Tại công văn số 7383/UBND-TNMT ngày 26/11/2015 của LQ Ủy ban nhân dân Quận X như sau: LQ Ủy ban nhân dân Quận X không có ý kiến về việc tranh chấp quyền sở hữu nhà giữa các đương sự, Ủy ban sẽ thực hiện theo quyết định của Tòa án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan – Ông LQ Nguy n Văn Quang, bà LQ H Thị Thu Thủy, trẻ LQ Nguy n H Thảo Nga, ông LQ Nguy n Văn Thanh, bà LQ Nguy n Thị Huệ, bà LQ Nguy n Thị Thủ, bà LQ Nguy n Thị Loan có ý kiến như sau: Các anh chị là con của ông bà BĐ Nguy n Văn Quốc, BĐ Vũ Thị Hoa, hiện nay đang cư trú tại nhà số 2/89 HHG, Khu phố 1, phường TL, Quận X. Căn nhà số 2/89 là của vợ ch ng ông BĐ Quốc và bà BĐ Hoa, đề nghị
Tòa án chấp nhận yêu cầu của bị đơn.
Tại bản án sơ thẩm số 542/2015/DS-ST ngày 30/12/2015 của Tòa án nhân dân Quận X, Thành phố HCM quyết định:
Áp dụng khoản 3 Điều 25, điểm a khoản 1 Điều 33, điểm a khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 79, khoản 1 Điều 201, khoản 1 Điều 202 Bộ luật Tố tụng Dân sự, (đã sửa đổi, bổ sung năm 2011);
Áp dụng các Điều 4, 129, 127, 466 Bộ luật Dân sự năm 2005; Áp dụng Pháp lệnh án phí, lệ phí Tòa án số 10/2009/UBTVQH12 ngày 27/02/2009 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội;
Áp dụng Thông tư liên tịch số 01/TTLT ngày 19/06/1997 của Tòa án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp, Bộ Tài chính hướng dẫn thi hành án về tài sản; 1. Chấp nhận yêu cầu “Tranh chấp quyền sở hữu nhà ở ” của vợ ch ng ông NĐ Nguy n Văn Chuẩn, bà NĐ Nguy n Thị Thảo đối với vợ ch ng ông BĐ Nguy n Văn Quốc, bà BĐ Vũ Thị Hoa.
Nhà và đất tại địa chỉ 2/89 HHG, Khu phố 1, phường TL, Quận X, Tp. HCM (Giấy chứng nhận nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở h sơ gốc số 12334 ngày 26/11/2003) là tài sản của của vợ ch ng ông NĐ Nguy n Văn Chuẩn, bà NĐ Nguy n Thị Thảo. Buộc vợ ch ng ông BĐ Nguy n Văn Quốc, bà BĐ Vũ Thị Hoa và những người đang cư ngụ trên đất là ông LQ Nguy n Văn Quang, bà LQ H Thị Thu Thủy, trẻ LQ Nguy n H Thảo Nga, ông LQ Nguy n Văn Thanh, bà LQ Nguy n Thị Huệ, bà LQ Nguy n Thị Thủ, bà LQ Nguy n Thị Loan phải giao trả căn nhà và đất 2/89 HHG, Khu phố 1, phường TL, Quận X, Tp. HCM cho vợ ch ng ông NĐ Nguy n Văn Chuẩn, bà NĐ Nguy n Thị Thảo ngay khi án có hiệu lực pháp luật. ng NĐ Nguy n Văn Chuẩn, bà NĐ Nguy n Thị Thảo có quyền liên hệ LQ Ủy ban nhân dân Quận X để điều chỉnh Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử
dụng đất ở, số h sơ gốc số 12334 ngày 26/11/2003 theo quy định của pháp luật.
2. Ghi nhận sự tự nguyện của Ông NĐ Nguy n Văn Chuẩn, bà NĐ Nguy n Thị Thảo hỗ trợ cho ông BĐ Nguy n Văn Quốc, bà BĐ Vũ Thị Hoa 200.000.000 đ ng (Hai trăm triệu đ ng), thực hiện ngay khi án có hiệu lực pháp luật.
3. Tiếp tục duy trì Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời số 01/2015/QDADBPKCTT ngày 16/01/2015 của Tòa án nhân dân Quận X cho đến khi thi hành xong bản án.
4. Án phí dân sự sơ thẩm: ng BĐ Nguy n Văn Quốc, bà BĐ Vũ Thị Hoa phải chịu 62.621.250 đ ng (Sáu mười hai triệu sáu trăm hai mươi mốt ngàn hai trăm năm mươi đ ng). Hoàn trả tiền tạm ứng án phí đã nộp 16.000.000 đ ng (Mười sáu triệu đ ng) cho ông bà NĐ Nguy n Văn Chuẩn, NĐ Nguy n Thị Thảo theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số AD/2014/0005194 ngày 08/01/2015 của Chi cục Thi hành án Dân sự Quận X. Ngoài ra bản án dân sự sơ thẩm còn tuyên quyền kháng cáo và quyền yêu cầu thi hành án. Ngày 06/01/2016 bị đơn ông BĐ Nguy n Văn Quốc và bà BĐ Vũ Thị Hoa kháng cáo toàn bộ bản án dân sự sơ thẩm.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
Nguyên đơn không rút yêu cầu khởi kiện, bị đơn không rút yêu cầu kháng cáo, các đương sự không thoả thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án.
Bị đơn yêu cầu Hội đ ng xét xử sửa bản án sơ thẩm theo hướng không chấp nhận yêu cầucủa nguyên đơn, công nhận quyền sở hữu của bị đơn đối với căn nhà 2/89 HHG, Khu phố 1, phường TL, Quận X, Tp. HCM. Theo bị đơn, Tòa cấp sơ thẩm đã xác định tranh chấp giữa các bên là tranh chấp về quyền sử dụng đất ở là đã vượt quá yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Do căn nhà đang tranh chấp là loại tài sản phải đăng ký quyền sở hữu nên các tài liệu do nguyên đơn cung cấp không có giá trị pháp lý chứng mình quyền sở hữu của nguyên đơn. Năm 1995 khi bị đơn vào ở tại căn nhà này, nguyên đơn đã nói cho bị đơn nhà nhưng không lập thành văn bản và bị đơn không có chứng cứ chứng minh. Đến năm 2004, các bên mới tiến hành ký hợp đ ng tặng cho nhà. Hợp đ ng tặng cho nhà ngày 16/4/2014 không phải là giao dịch dân sự giả tạo và không bị tuyên vô hiệu nên có giá trị pháp lý vì thế thông tin cập nhật chủ sở hữu tại Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở, số h sơ gốc số 12334 ngày 26/11/2003 vẫn có hiệu lực và bị đơn là chủ sở hữu hợp pháp của căn nhà này. Trong trường hợp nguyên đơn rút đơn khởi kiện, bị đơn sẽ hỗ trợ nguyên đơn số tiền 800.000.000 đ ng.
Nguyên đơn đề nghị giữ nguyên án sơ thẩm vì căn nhà 2/89 HHG, Khu phố 1, phường TL, Quận X, Tp. HCM là tài sản thuộc quyền sở hữu của nguyên đơn. Nguyên đơn và bị đơn cùng có công xây dựng căn nhà. Tuy nhiên, do không có chứng cứ chứng minh và không xác định được cụ thể phần xây dựng của từng bên nên nguyên đơn tự nguyện trả cho bị đơn tiền xây dựng nhà là 200.000.000 đ ng. Ngoài ra, theo nguyên đơn thì bị đơn ở nhờ nhà của nguyên đơn và không có công sức gì nhưng nguyên đơn cũng tự nguyện hỗ trợ cho bị đơn tiền công trông nom căn nhà là 400.000.000 đ ng.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố HCM trình bày quan điểm:
– Về tố tụng: Từ ngày thụ lý đến khi xét xử và tại phiên tòa hôm nay, Tòa án nhân dân Thành phố HCM, Thẩm phán, Hội đ ng xét xử, các đương sự đã thực hiện đầy đủ và đúng trình tự thủ tục tố tụng được quy định trong Bộ luật Tố tụng dân sự đã được sửa đổi bổ sung năm 2011.
– Về nội dung: Căn cứ bản cam kết ngày 09/12/2013 và các chứng cứ khác trong h sơ vụ án, có cơ sở xác định nguyên đơn là chủ sở hữu thực sự của căn nhà đang tranh chấp, hợp đ ng tặng cho nhà giữa nguyên đơn và bị đơn là giao dịch dân sự giả tạo. Đề nghị Hội đ ng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị đơn. Tòa cấp sơ thẩm đã áp dụng sai quy định của pháp luật trong việc tính án phí nên đề nghị sửa bản án sơ thẩm.
XÉT THẤY:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong h sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đ ng xét xử nhận định:
Về tố tụng: Ngày 30/12/2015 Tòa án nhân dân Quận X xét xử sơ thẩm vụ án về Tranh chấp quyền sở hữu nhà và đòi lại nhà. Đến ngày 06/01/2016, bị đơn ông BĐ Nguy n Văn Quốc và bà BĐ Vũ Thị Hoa kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm. Căn cứ Điều 243, Điều 244, Điều 245 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2011, đơn kháng cáo của đương sự còn trong hạn luật định nên hợp lệ.
Về quan hệ tranh chấp: Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu công nhận quyền sở hữu của nguyên đơn đối với căn nhà 2/89 HHG, phường TL, Quận X, Tp. HCM. Bị đơn không đ ng ý và cho rằng căn nhà này thuộc quyền sở hữu của bị đơn, đã được công nhận tại Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở h sơ gốc số 12334 ngày 26/11/2003. Do đó, Tòa cấp sơ thẩm xác định quan hệ tranh chấp giữa các đương sự là tranh chấp về quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở là đúng pháp luật.
Xét yêu cầu kháng cáo của bị đơn về việc yêu cầu sửa án sơ thẩm theo hướng công nhận quyền sở hữu của bị đơn đối với căn nhà 2/89 HHG, phường TL, Quận X, Thành phố HCM thấy: Các đương sự thống nhất xác nhận các nội dung sau:
Căn nhà số 2/89 HHG, phường TL, Quận X, Tp. HCM có ngu n gốc do nguyên đơn mua của ông Trương Minh Tấn theo biên nhận ngày 10/9/1992. Năm 1995, nguyên đơn cho bị đơn vào ở nhờ tại đây. Năm 2001 được sự đ ng ý của nguyên đơn, bị đơn đã xây dựng thêm phần nhà có gác.
Năm 2003 nguyên đơn tiến hành các thủ tục hợp thức hóa nhà đất và được LQ Ủy ban nhân dân Quận X cấp Giấy chứng nhận nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở h sơ gốc số 12334 ngày 26/11/2003.
Ngày 16/4/2004 nguyên đơn và bị đơn ký kết hợp đ ng tặng cho số 3607 tại Phòng Công chứng Số 5, Thành phố HCM để tặng cho căn nhà số 2/89 HHG, phường TL, Quận X, Tp. HCM. Ngày 06/5/2004 bị đơn đã được công nhận quyền sở hữu đối với căn nhà theo phần cập nhật thay đổi chủ sở hữu tại Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở h sơ gốc số
12334 ngày 26/11/2003.
Bị đơn khai nguyên đơn đã cho bị đơn nhà từ năm 1995 nhưng không được nguyên đơn thừa nhận và không cung cấp được chứng cứ chứng minh cho lời khai của mình. Năm 2001 bị đơn xây nhà cũng phải xin phép nguyên đơn và năm 2003, người đứng tên xin hợp thức hóa nhà và được cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà là nguyên đơn nên lời khai của bị đơn là không có cơ sở. Do đó, cho đến trước khi ký hợp đ ng tặng cho nhà ngày 16/4/2004, về căn cứ pháp lý và trên thực tế, căn nhà số 2/89 HHG, Khu phố 1, phường TL, Quận X là tài sản thuộc quyền sở hữu của nguyên đơn.
Xét việc nguyên đơn trình bày các bên ký kết hợp đ ng tặng cho nhà ngày 16/4/2004 không phải để chuyển quyền sở hữu mà nhằm mục đích cho bị đơn có điều kiện nhập hộ khẩu tại Tp.HCM và xuất trình bản cam kết ngày 09/12/2013, thấy: Các đương sự xác nhận các bên đã ký Bản cam kết ngày 09/12/2013 và không có căn cứ cho thấy bên nào bị ép buộc khi ký văn bản này. Tại Điều 1 và 2 của cam kết này có ghi nhận các bên xác định quyền sử dụng đất ở, nhà ở căn nhà 2/89 HHG thực chất là của nguyên đơn và mục đích của việc tặng cho nhà trước đây là để gia đình bị đơn làm hộ khẩu cho con đi học và giải quyết công việc hành chính trong cuộc sống. Nội dung này thể hiện các bên ký hợp đ ng tặng cho ngày 16/4/2013 không nhằm mục đích chuyển quyền sở hữu nhà từ nguyên đơn sang bị đơn theo quy định tại C về Hợp đ ng tặng cho tài sản mà chỉ có mục đích để bị đơn có điều kiện đăng ký hộ khẩu theo những quy định của pháp luật cư trú tại thời điểm năm 2004. Bị đơn cho rằng bản cam kết ngày 09/12/2013 là thỏa thuận định đoạt tài sản có thời hạn cụ thể là thỏa thuận bán nhà để chia đôi và không có hiệu lực
pháp lý vì đã quá thời hạn thỏa thuận là ngày 31/12/2014 mà các bên không thực hiện cam kết đ ng thời tại thời điểm ký bản cam kết nguyên đơn không phải chủ sở hữu nên không có quyền định đoạt tài sản. Xét, mặc dù đã hết thời hạn ghi trong bản cam kết mà các bên không thực hiện thỏa thuận đã ký và bản cam kết này không phải căn cứ pháp lý chấm dứt quyền sở hữu của bị đơn đã được công nhận tại Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở nhưng nội dung các bên xác nhận tại bảm cam kết cho thấy đến thời điểm ký cam kết là ngày 09/12/2013, trên thực tế, nguyên đơn mới là chủ sở hữu của căn nhà 2/89 HHG và Hợp đ ng tặng cho nhà ngày 16/3/2004 là giao dịch giả tạo.
Hơn nữa, tại cam kết ngày 26/5/2015, một lần nữa bị đơn lại đ ng ý sang tên sổ chủ quyền nhà đất và bàn giao nhà đất căn nhà 2/89 HHG cho nguyên đơn và nguyên đơn giao cho bị đơn 900.000.000 đ ng. Như vậy chứng tỏ bị đơn không phải là chủ sở hữu thực sự của căn nhà 2/89 HHG. Từ những nhận định nêu trên việc tòa sơ thẩm chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn, xác định nhà đất tại số 2/89 HHG, phường TL, Quận X, Thành phố HCM thuộc sở hữu của nguyên đơn là có cơ sở.
Do Hợp đ ng tặng cho nhà ở ngày 16/4/2004 là giao dịch giả tạo nhằm che dấu cho một giao dịch khác nên căn cứ Điều 138 Bộ luật Dân sự năm 1995, Hợp đ ng tặng cho số 3607 ngày 16/4/2004 ký tại Phòng Công chứng Số 5 giữa nguyên đơn và bị đơn vô hiệu. Từ đó, phần cập nhật đăng ký chủ sở hữu tại Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở h sơ gốc số 12334 ngày 26/11/2003 cũng cần phải hủy bỏ. Tuy nhiên, do các đương sự không có yêu cầu tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu và không yêu cầu hủy quyết định cá biệt của cơ quan, tổ chức nên Tòa cấp sơ thẩm không giải quyết là đúng. Bản án sơ thẩm đã tuyên cho nguyên đơn liên hệ cơ quan chức năng để đăng ký tên chủ sở hữu nên khi nguyên đơn được cập nhật thay đổi tên chủ sở hữu tại Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở h sơ gốc số 12334 ngày 26/11/2003 thì đương nhiên bị đơn sẽ không còn là chủ sở hữu của căn nhà 2/89 HHG, phường TL, Quận X, Thành phố HCM nữa. Vì vậy, không cần thiết phải hủy phần cập nhật chủ sở hữu là BĐ Nguy n Văn Quốc và bà BĐ Vũ Thị Hoa ngày 06/5/2004 tại Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở ngày 26/11/2003.
Tại văn bản ngày 26/5/2015 các bên thỏa thuận bị đơn sẽ giao nhà, sang tên chủ quyền cho nguyên đơn và nguyên đơn giao cho bị đơn 900.000.000 đ ng. Tuy nhiên các bên đã không thực hiện thỏa thuận này mà phải giải quyết tranh chấp quyền sở hữu nhà tại Tòa án. Hơn nữa, tại phiên tòa, bị đơn vẫn xác định căn nhà đang tranh chấp là tài sản của bị đơn và các cam kết ngày 09/12/2013, ngày 26/5/2015 không có giá trị pháp lý. Do đó, nguyên đơn không có nghĩa vụ phải thực hiện cam kết phải giao cho bị đơn một khoản tiền như đã ghi nhận tại các cam kết nêu trên.
Về giá trị tài sản xây dựng trên đất tranh chấp, nguyên đơn và bị đơn xác nhận phần nhà phía sau được xây dựng năm 2001 g m một căn nhà lá cấp 4 khoảng 20m2 và một nhà lầu diện tích 32m2 là của bị đơn xây dựng. Đối với phần nhà cấp 4 và phần quán nhỏ phía trước xây dựng năm 1995 cả nguyên đơn và bị đơn đều xác định do mình xây dựng nhưng không bên nào cung cấp được chứng cứ chứng minh cho lời khai của mình. Tuy nhiên, nguyên đơn tự nguyện trả cho bị đơn tiền xây dựng nhà là 200.000.000 đ ng. Xét, số tiền nguyên đơn yêu cầu trả cho bị đơn lớn hơn trị giá xây dựng được xác định tại biên bản định giá ngày 20/8/2015 là có lợi cho bị đơn nên chấp nhận. Ghi nhận sự tự nguyện của nguyên đơn hỗ trợ cho bị đơn tiền công trông coi nhà là 400.000.000 đ ng.
Căn cứ điểm a khoản 2 Điều 17 Nghị quyết 01/2012/NQ-HĐTP ngày 13/6/2012 của Hội đ ng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao:“Trường hợp tranh chấp về quyền sở hữu tài sản mà Tòa án không xem xét giá trị, chỉ xem xét quyền sở hữu tài sản của ai thì đương sự phải chịu án phí sơ thẩm như đối với trường hợp vụ án không có giá ngạch”. Bản án sơ thẩm xác định bị đơn phải chịu án phí trên giá trị nhà, đất là không đúng, cần phải sửa. Bị đơn chỉ phải chịu án phí không giá ngạch là 200.000 đ ng. Nguyên đơn phải chịu án phí đối với phần số tiền xây dựng nhà 200.000.000 đ ng trả cho bị đơn.
Từ những nhận định nêu trên thấy đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố HCM là có căn cứ, yêu cầu kháng cáo của bị đơn là không có cơ sở để chấp nhận nhưng cần sửa án sơ thẩm.
Do bản án sơ thẩm bị sửa nên bị đơn không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm. Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Áp dụng khoản 2 Điều 275 Bộ luật Tố tụng dân sự.
Tuyên xử: Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị đơn ông BĐ Nguy n Văn Quốc và bà BĐ Vũ Thị Hoa, sửa một phần bản án sơ thẩm.
1/ Chấp nhận yêu cầu “Tranh chấp quyền sở hữu nhà ở ” của vợ ch ng ông NĐ Nguy n Văn Chuẩn, bà NĐ Nguy n Thị Thảo đối với vợ ch ng ông BĐ Nguy n Văn Quốc, bà BĐ Vũ Thị Hoa.
Nhà và đất tại địa chỉ 2/89 HHG, Khu phố 1, phường TL, Quận X, Tp. HCM (Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở h sơ gốc số 12334 ngày 26/11/2003) là tài sản của của vợ ch ng ông NĐ Nguy n Văn Chuẩn, bà NĐ Nguy n Thị Thảo.
Ông NĐ Nguy n Văn Chuẩn, bà NĐ Nguy n Thị Thảo có quyền liên hệ cơ quan có thẩm quyền để đăng ký quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở đối với căn nhà số 2/89 HHG, phường TL, Quận X, Thành phố HCM theo quy định của pháp luật. Buộc vợ ch ng ông BĐ Nguy n Văn Quốc, bà BĐ Vũ Thị Hoa và những người đang cư ngụ trên đất là ông LQ Nguy n Văn Quang, bà LQ H Thị Thu Thủy, trẻ LQ Nguy n H Thảo Nga, ông LQ Nguy n Văn Thanh, bà LQ Nguy n Thị Huệ, bà LQ Nguy n Thị Thủ, bà
LQ Nguy n Thị Loan phải giao trả căn nhà và đất 2/89 HHG, Khu phố 1, phường TL, Quận X, Tp. HCM cho vợ ch ng ông NĐ Nguy n Văn Chuẩn, bà NĐ Nguy n Thị Thảo ngay khi án có hiệu lực pháp luật.
2. Ông NĐ Nguy n Văn Chuẩn, bà NĐ Nguy n Thị Thảo phải trả cho ông BĐ Nguy n Văn Quốc, bà BĐ Vũ Thị Hoa 200.000.000 đ ng (Hai trăm triệu đ ng), thực hiện ngay khi án có hiệu lực pháp luật.
3. Ghi nhận sự tự nguyện của ng NĐ Nguy n Văn Chuẩn, bà NĐ Nguy n Thị Thảo đ ng ý trả cho ông BĐ Nguy n Văn Quốc, bà BĐ Vũ Thị Hoa tiền công sức trông coi nhà đất là 400.000.000 đ ng (Bốn trăm triệu đ ng), thực hiện ngay khi án có hiệu lực pháp luật. Kể từ ngày ông BĐ Quốc, bà BĐ Hoa có đơn yêu cầu thi hành án mà ông NĐ Chuẩn, bà NĐ Thảo chưa thi hành số tiền nêu trên thì ông NĐ Chuẩn, bà NĐ Thảo còn phải chịu lãi theo lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước quy định tương ứng với số tiền và thời gian chưa thi hành án tại thời điểm thi hành án.
4. Tiếp tục duy trì Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời số 01/2015/QDADBPKCTT ngày 16/01/2015 của Tòa án nhân dân Quận X cho đến khi thi hành xong bản án.
5. Về án phí:
5.1. Về án phí dân sự sơ thẩm:
Ông BĐ Nguy n Văn Quốc, bà BĐ Vũ Thị Hoa phải chịu 200.000 đ ng (Hai trăm ngàn đ ng).
Ông NĐ Nguy n Văn Chuẩn và bà NĐ Nguy n Thị Thảo phải nộp án phí là 10.000.000 đ ng (Mười triệu đ ng) nhưng được trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp 16.000.000 đ ng (Mười sáu triệu đ ng) theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số AD/2014/0005194 ngày 08/01/2015 của Chi cục Thi hành án dân sự Quận X. ng NĐ Chuẩn, bà NĐ Thảo được hoàn lại 6.000.000 đ ng (Sáu triệu đ ng).
5.2. Về án phí dân sự phúc thẩm: ng BĐ Quốc và bà BĐ Hoa không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm nên được hoàn lại tiền tạm ứng án phí phúc thẩm đã nộp là 200.000 đ ng (Hai trăm ngàn đ ng) theo biên lai thu số 04768 ngày 13/01/2016 của Chi cục Thi hành án dân sự Quận X, Thành phố HCM.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quyết định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo
qui định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nguồn Case Law
HƯỚNG DẪN SỬ DỤNG TÀI LIỆU
CASELAW VIỆT NAM về bản án được đăng tải “như nguyên gốc” từ các nguồn mà chúng tôi cho rằng đáng tin cậy và dựa trên cơ sở “thực tế và sẵn có”. Các thông tin về tên và địa chỉ của một số cá nhân, tổ chứ được đề cập và/hoặc xuất hiện trong bản án này đã được thay đổi. Tài liệu này chỉ được sử dụng vào mục đích học tập và nghiên cứu, nghiêm cấm sử dụng vào mục đích nào khác nhằm xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân.
Bằng những nỗ lực của các cố vấn, chuyên gia, thành viên và cộng tác viên của CASELAW VIỆT NAM, chúng tôi cam kết thực hiện mọi biện pháp theo quy định của pháp luật cùng với sự cẩn trọng cao nhất để đảm bảo tính xác thực và chính xác của nội dung bản án mà Quý khách hàng đang theo dõi.
Mặc dù vậy, nội dung trong bản án này chỉ có giá trị tham khảo đối với tất cả mọi người. CASELAW VIỆT NAM không chịu trách nhiệm đối với bất kỳ khiếu nại, thiệt hại, rủi ro, tổn thất hay nghĩa vụ phát sinh trực tiếp, gián tiếp hoặc phái sinh do việc sử dụng nội dung bản án này cho bất kỳ mục đích nào. CASELAW VIỆT NAM khuyến nghị tất cả mọi người, bao gồm cả Quý khách hàng nên tham vấn luật sư để nhận được sự tư vấn cụ thể và chính xác nhất. Chúng tôi chân thành cảm ơn sự ủng hộ và những đóng góp quý báu của các cố vấn, chuyên gia, thành viên và cộng tác viên của CASELAW VIỆT NAM đã giúp chúng tôi hoàn thành việc thu thập, nghiên cứu và biên tập nội dung bản án này.